Tin Tức Mới 

Đánh giá hiệu quả các mô hình sinh kế nuôi trồng thủy sản tại huyện A Lưới

csrd

05/30/2024

Hoạt động hỗ trợ 10 mô hình sinh kế về nuôi trồng thủy sản (NTTS) cấp cộng đồng là một trong 6 nhóm hoạt động của dự án: Nâng cao năng lực của phụ nữ trong xây dựng mô hình sinh kế bền vững dựa vào quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên nước ở thượng nguồn sông A Sáp thuộc huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam. Các mô hình sinh kế NTTS cộng đồng được triển khai từ tháng 6/2023 tại 05 xã tham gia dự án gồm: xã Sơn Thủy, xã Quảng Nhâm, xã Hồng Kim, xã Hồng Thái và xã Hồng Thượng.

Hoạt động đánh giá với sự tham gia của các nhóm cộng đồng.

Đánh giá các mô hình sinh kế thực hiện tại các xã này để xem xét hiệu quả của mô hình và chuẩn bị cho đánh giá tổng kết và kết thúc dự án vào cuối tháng 5/2024. Các nội dung đánh giá bao gồm: i) Đánh giá thực trạng và kết quả thực hiện các mô hình nuôi trồng thủy sản (NTTS) đồng quản lý tại vùng dự án, ii) Xác định những thuận lợi và khó khăn trong quá trình triển khai và thực hiện mô hình; iii) Xem xét tính phù hợp của các mô hình NTTS đồng quản lý; iv) Xem xét và phân tích các hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường của mô hình; v) Đánh giá khả năng duy trì và nhân rộng mô hình; và vi) Đưa ra các bài học kinh nghiệm và khuyến nghị cụ thể để cải thiện hiệu quả của mô hình đồng quản lý. Phương pháp đánh giá trong khuôn khổ của nhiêm vụ này là thu thập thông tin từ 100% mô hình đang thực hiện (10 mô hình), tham vấn 100% hộ tham gia là thành viên nhóm NTTS (10 thành viên/nhóm) và 20% so với tổng số hộ tham gia mô hình (20 người) là các hộ không phải là thành viên nhóm NTTS; Đồng thời tham vấn với các lãnh đạo chủ chốt và các ban ngành chức năng liên quan về thủy sản, tài nguyên và môi trường, hội phụ nữ của 5 xã và huyện A Lưới. Thông tin thu thập từ tham vấn các cấp huyện, xã, nhóm hộ hưởng lợi và không hưởng lợi sẽ được xử lý, phân tích và kiểm tra chéo kết hợp với quan sát trực tiếp tại 10 mô hình của chuyên gia đánh giá độc lập để có nhận định và đánh giá phù hợp về hiệu quả của các mô hình sinh kế thực hiện tại các xã vùng dự án.

Các nhóm nhận được nguồn kinh phí hỗ trợ từ dự án vào tháng 7/2023.

Kết quả đánh giá cho thấy:

– 10 mô hình sinh kế NTTS cộng đồng đang được thực hiện tại 5 xã dự án, trong đó gồm 3 mô hình nuôi cá lồng, 5 mô hình nuôi cá ao đất chủ động nước và 2 mô hình nuôi ếch. Sau 8 tháng nuôi, tình hình sinh trưởng của cá nuôi lồng và nuôi ao đất là tốt, tỷ lệ sống rất cao, từ 70 – 95%, khối lượng cá bình quân đạt từ 0,8 – 1,2 kg/con, đạt 100% so với kế hoạch ban đầu (nuôi cá từ 1 – 1,5 năm cá trắm đạt từ 1,5 – 2kg/con), chưa thấy có hiện tượng dịch bệnh cá xuất hiện. Trong 2 mô hình nuôi ếch thì 1 mô hình nuôi ếch trong bể xi măng có tỷ lệ chết là 100% sau 2 tháng nuôi; mô hình nuôi ếch ở xã Hồng Kim bị thất thoát do mưa lụt gần một nửa, số còn lại bị còi cọc chậm lớn nên sản lượng không cao. Một số thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện mô hình cũng đã được ghi nhận.

– 100% ý kiến tham vấn cho rằng các mô hình sinh kế NTTS cộng đồng là phù hợp với chủ trương, chính sách, kế hoạch phát triển KT – XH của địa phương, phù hợp với nhu cầu và nguyện vọng của cộng đồng, phù hợp với điều kiện khí hậu thời tiết và tài nguyên nước hiện có, quy trình kỹ thuật dễ thực hiện, phù hợp với năng lực của người dân, cách vận hành làm việc theo nhóm cũng phù hợp với điều kiện sống và phong tục tập quán của người dân địa phương.

Về hiệu quả kinh tế, thời gian nuôi còn ngắn nên đa số chưa thu hoạch, một số mô hình có đánh tỉa để bán, thu được một số tiền để tái đầu tư vào sản xuất. Tuy vậy, kết quả đánh giá cho thấy tỷ lệ số hộ rất hài lòng và hải lòng chiếm hơn 90% số hộ được tham vấn, điều này chứng tỏ các mô hình sinh kế NTTS bền vững đã có những kết quả tốt, thành công bước đầu, đã đem lại sự tin tưởng cho các hộ là thành viên của các nhom NTTS cộng đồng.

Về hiệu quả xã hội, 100% ý kiến tham vấn đều đánh giá rất cao, mô hình sinh kế cộng đồng đã góp phần tạo thêm việc làm, đặc biệt cho phụ nữ vùng cao: các mô hình sinh kế NTTS đã thu hút được 100 thành viên tham gia, trong đó có 70 phụ nữ, góp phần nâng cao năng lực cho người dân, đặc biệt cho phụ nữ, đồng thời còn góp phần tăng sự bình đẳng giới, tăng quyền và cơ hội tham gia cho phụ nữ vùng cao, thông qua mô hình làm việc theo nhóm mà đã góp phần tạo được sự tương thân tương ái, tinh thần đoàn kết, gắn bó lẫn nhau trong cộng đồng.

Hiệu quả môi trường, 100% ý kiến tham vấn cho rằng các mô hình sinh kế NTTS với phương thức nuôi quảng canh và hình thức nuôi ghép các loại cá trong cùng một thủy vực đã không gây ảnh hưởng xấu đến môi trường, đồng thời đã sử dụng hiệu quả tài nguyên nước để phát triển các mô hình sinh kế cho người dân.

Về khả năng bền vững của các mô hình sinh kế NTTS cộng đồng, có 9/10 mô hình sinh kế NTTS thưc hiện tại 5 xã dự án có khả năng bền vững, trong đó khả năng bền vững của mô hình nuôi cá lồng là cao nhất. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với tiềm năng của huyện (lòng hồ thủy điện A Sáp) và chủ trương của huyện A Lưới về khuyến khích phát triển nuôi cá lồng lòng hồ thủy điện A Sáp.          

Kết quả tham vấn cũng đã rút ra một số bài học kinh nghiệm liên quan đến chính sách, sự tham gia, quá trình thực hiện và yếu tố kỹ thuật NTTS; đồng thời cũng đã đưa ra một số khuyến nghị đối với các cấp chính quyền, nhóm mô hình sinh kế cũng như cơ quan chủ quản và thực hiện dự án.  
Clip tổng quan đánh giá và khuyến nghị:

Tìm kiếm